Dự báo cung cầu than thế giới qua báo cáo Coal 2022 của IEA

Báo cáo thị trường than của IEA được ấn hành thường niên vào tháng 12 hàng năm kể từ năm 2011. Nó trở thành tiêu chuẩn toàn cầu cho các dự báo về cung, cầu và thương mại than. Đây là tài liệu cần thiết cho bất kỳ ai quan tâm đến khí hậu và năng lượng, bởi than là đối tượng trung tâm của các cuộc thảo luận về khí hậu và năng lượng. Đồng thời nó là nguồn năng lượng lớn nhất trên toàn cầu để phát điện, sản xuất sắt, thép và xi măng, cũng như là nguồn phát thải carbon dioxide (CO2) lớn nhất hành tinh. Cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay đã buộc một số quốc gia lệ thuộc vào than đá bất chấp các mục tiêu về khí hậu và năng lượng.

Coal 2022 đưa ra phân tích kỹ lưỡng về các xu hướng gần đây về cung, cầu, thương mại, chi phí và giá than trong bối cảnh gia tăng lo ngại về an ninh năng lượng và căng thẳng địa chính trị. Coal 2022 cũng cung cấp các dự báo đến năm 2025 về cung, cầu và thương mại – theo khu vực và theo nguồn than. Báo cáo cũng phân tích về “yếu tố Trung Quốc”, quốc gia có ảnh hưởng lớn đối với thị trường than thế giới cũng như bất kỳ loại nhiên liệu nào khác.

Nhu cầu than toàn cầu vượt ngưỡng 8 tỷ tấn trong năm 2022

Tiêu thụ than toàn cầu phục hồi mạnh 6% lên 7.929 triệu tấn (Mt) vào năm 2021, sau khi giảm mạnh trước đại dịch Covid-19. Sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ, đặc biệt là ở các quốc gia phụ thuộc nhiều vào than đá, chẳng hạn như Trung Quốc và Ấn Độ, trong khi giá khí đốt tự nhiên cao hơn đã thúc đẩy làn sóng chuyển đổi nhiên liệu sang than đá, với sản lượng điện tăng 8% lên 5.344 triệu tấn. Hoạt động công nghiệp gia tăng đã thúc đẩy sử dụng than cho các ứng dụng phi điện tăng 2,2% lên 2.585 triệu tấn.

Cho đến nay, Trung Quốc vẫn là quốc gia tiêu thụ than lớn nhất, chiếm 53% nhu cầu toàn cầu. Nhìn chung, mức tiêu thụ than của quốc gia này tăng 4,6% lên 4.232 triệu tấn vào năm 2021, với mức tăng trưởng mạnh nhất trong nửa đầu năm trước khi chậm lại trong nửa cuối năm. Nhu cầu than ở Ấn Độ, nước tiêu thụ lớn thứ hai, thậm chí còn tăng mạnh hơn với mức 14%, tương đương 128 Mt vào năm 2021. Các quốc gia khác báo cáo mức tăng đáng kể là: Hoa Kỳ (+15%/+66 Mt), Đức (+19%/+26 Mt) và Ba Lan (+12%/+13 Mt). Chỉ có một số quốc gia ghi nhận giảm trong năm ngoái, trong đó Nam Phi ghi nhận mức giảm lớn nhất ở mức -5% (-9 Mt). Ngược lại, tăng trưởng nhu cầu than toàn cầu dự kiến chậm lại rõ rệt trong năm 2022, chỉ tăng 1,2%, nhưng vẫn đạt kỷ lục mới là 8.025 Mt, cao hơn một chút so với mức năm 2013 (7.997 Mt). Tăng trưởng thấp hơn phần lớn phản ánh nền kinh tế toàn cầu yếu hơn, với GDP được dự báo sẽ đạt mức trung bình 3,2% trong năm 2022 khi nền kinh tế phải vật lộn với cuộc khủng hoảng năng lượng, lạm phát gia tăng và sự gián đoạn căng thẳng của chuỗi cung ứng.

Các yếu tố đang hỗ trợ sự gia tăng nhu cầu than gồm:

Thứ nhất, nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên hạn hẹp, trong khi giá khí đốt cao đang khiến một số quốc gia và công ty chuyển sang sử dụng than tương đối rẻ hơn.

Thứ hai, các đợt nắng nóng và hạn hán ở một số khu vực trên thế giới đã làm tăng nhu cầu điện và giảm sản xuất thủy điện, tạo ra một khoảng trống mà hầu hết các nhà máy nhiệt điện có thể điều độ được lấp đầy.

Cuối cùng, năng lượng hạt nhân đặc biệt yếu vào năm 2022, nhất là ở châu Âu, nơi Pháp phải đóng một phần đáng kể công suất hạt nhân để bảo trì.

Nhu cầu than tăng nhiều nhất trong năm nay là ở Ấn Độ (+7%/+70 Mt), tiếp theo là Liên minh châu Âu (+6%/+29 Mt) và Trung Quốc (+0,4%/+18 Mt). Tuy nhiên, trong khi sản xuất điện đốt than ở Trung Quốc và Ấn Độ đang tăng lên để bắt kịp với nhu cầu, thì một số nước châu Âu đã tạm thời chuyển sang sử dụng than do giá khí đốt tự nhiên cao kỷ lục, sản lượng thủy điện thấp và việc đóng cửa liên quan đến bảo trì tại các nhà máy hạt nhân. Sự sụt giảm đáng kể trong tiêu thụ than được ghi nhận ở Hoa Kỳ (-6%/-31 Mt), nơi mà quá trình chuyển đổi từ sản xuất điện than sang nhiệt điện khí vẫn tiếp tục và các nhà sản xuất than gặp khó khăn sau nhiều năm thiếu đầu tư.

Nguồn cung than đạt đỉnh vào năm 2022 và sẽ chững lại vào năm 2025

Mặc dù triển vọng kinh tế xấu đi, nguồn cung than toàn cầu được dự báo sẽ đạt mức mới vào năm 2022 do nhu cầu than trong sản xuất điện tăng, vì thị trường khí đốt thắt chặt và giá cao. Trung Quốc và Ấn Độ tiếp tục đẩy mạnh sản xuất than để khắc phục tình trạng thiếu nguồn cung, hơn là bù đắp cho sự sụt giảm sản lượng của Nga do các lệnh trừng phạt của phương Tây được áp đặt sau hậu quả của cuộc xung đột với Ukraine của nước này. Sản lượng than toàn cầu được dự báo sẽ tăng 5,4% lên 8.318 triệu tấn vào năm 2022, mức cao mới mọi thời đại và cao hơn nhiều so với kỷ lục được thiết lập vào năm 2019. Điều này diễn ra sau mức tăng 3,9% lên 7.888 triệu tấn vào năm 2021 khi các nền kinh tế phục hồi từ nhu cầu giảm do đại dịch Covid-19 gây ra vào năm 2020.

Về giá trị tuyệt đối, tăng trưởng năm 2021 chủ yếu nhờ sản lượng tăng 153 Mt ở Trung Quốc (4%) và 48 Mt ở Ấn Độ (~6%). Than non chiếm 98% trong mức tăng 295 Mt và khoảng 86% tổng sản lượng. Quỹ đạo tăng trưởng phục hồi cho sản xuất than toàn cầu dự kiến sẽ đạt đỉnh vào năm 2023, chỉ cao hơn một chút so với mức năm 2022. Đến năm 2025, IEA ước tính sản lượng than sẽ giảm xuống còn 8.221 Mt, thấp hơn mức của năm 2022. Các mức thấp hơn phần lớn phản ánh kỳ vọng rằng sản lượng than của Trung Quốc sẽ ổn định trong những năm tới và sự tăng trưởng liên tục trong sản xuất than của Ấn Độ (+128 Mt) sẽ được bù đắp bằng sự sụt giảm lớn ở các khu vực khác, chẳng hạn như: Hoa Kỳ (- 92 Mt) , Liên minh châu Âu (-68 Mt), Indonesia (-40 Mt) và Nga (-13 Mt).

Thương mại than toàn cầu phục hồi nhưng sẽ giảm vào năm 2025.

Thương mại than quốc tế bắt đầu phục hồi chậm sau suy thoái kinh tế từ Covid-19 vào năm 2021, với khối lượng tăng lên 1.333 triệu tấn trong 5 năm, chiếm ~17% lượng than toàn cầu nhu cầu. Tuy nhiên, trong khi giao dịch than nhiệt (bao gồm than non và một số than antraxit) tăng 1,6%, nhưng khối lượng giao dịch than luyện kim giảm 2,3%, đảo ngược diễn biến của năm trước. Phần lớn lượng than được giao dịch vào năm 2021 (93%) là vận chuyển bằng đường biển. Theo truyền thống, thương mại than tập trung ở các lưu vực Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, với Nam Phi và ở mức độ thấp hơn là Nga nối hai bên. Tuy nhiên, mô hình thương mại than quốc tế đã thay đổi trong những năm gần đây, khi nhu cầu nhập khẩu của châu Âu giảm và xuất khẩu của Nam Phi chuyển sang Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tăng.

Tuy nhiên, vào năm 2021, giá khí đốt tự nhiên tăng cao đã đảo ngược diễn biến này khi nhu cầu nhập khẩu than ở châu Âu tăng lên. Nhập khẩu của Đức (38 triệu tấn) một lần nữa vượt qua Thổ Nhĩ Kỳ (36 triệu tấn) để trở thành nước nhập khẩu lớn nhất ngoài Châu Á Thái Bình Dương, chiếm 79% lượng than nhập khẩu toàn cầu. Indonesia đã tăng xuất khẩu khoảng 7% lên 436 Mt, giữ vững vị trí là nước xuất khẩu than lớn nhất thế giới tính theo trọng lượng vào năm 2021.

Trung Quốc đã tăng nhập khẩu than khoảng 7% lên 338 triệu tấn và vẫn là nước nhập khẩu lớn nhất. Trung Quốc giảm mạnh nhập khẩu từ Úc do tranh chấp giữa chính phủ hai nước, thay vào đó tăng nguồn cung từ Indonesia và Nga. Nhập khẩu than của Ấn Độ giảm khoảng 6%, xuống còn 207 Mt, trong khi Nhật Bản vẫn ở mức khoảng 173 Mt. Ba quốc gia này chiếm 52% tổng lượng nhập khẩu toàn cầu. Vào năm 2022, cuộc xung đột giữa Ukraine và Nga đã dẫn đến một cuộc cải tổ phức tạp về thương mại than toàn cầu.

Do hậu quả của chiến tranh, việc mở rộng các biện pháp trừng phạt quốc tế đối với Nga, bao gồm thanh toán, vận chuyển và bảo hiểm xuất khẩu năng lượng đã làm gián đoạn dòng chảy thương mại. Vào tháng 4/2022, các giao dịch mua than mới của Nga đã bị cấm ở EU, trong khi xuất khẩu từ các hợp đồng hiện có bị tạm dừng vào ngày 10/8 trở đi. Kết quả là giá than của Nga giảm mạnh và dòng than quốc tế bắt đầu chuyển hướng. Trong khi các nước châu Á như: Ấn Độ và Trung Quốc tăng cường nhập khẩu từ Nga, các nước tuân thủ lệnh cấm đã tìm kiếm nguồn cung cấp thay thế. Giá than cao đã khuyến khích các nhà sản xuất than nhỏ như Tanzania và Botswana tham gia vào thị trường than toàn cầu.

Tổng thể, IEA kỳ vọng đến năm 2025, hai bước phát triển cơ bản sẽ định hình thương mại toàn cầu. Một là, các quốc gia, đặc biệt là ở châu Âu, sẽ thích nghi và vượt qua cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay và quay trở lại con đường loại bỏ dần than đá của họ. Thứ hai, những nỗ lực liên tục để đảm bảo nguồn cung cấp năng lượng của Trung Quốc và Ấn Độ dẫn đến sản lượng trong nước cao hơn và nhập khẩu thấp hơn. IEA dự đoán giao dịch than nhiệt sẽ giảm mạnh, khoảng 10% cho đến năm 2025. Ngược lại, giao dịch than luyện kim sẽ tiếp tục tăng ~6%.

Giá than đạt mức kỷ lục – than nhiệt thậm chí giao dịch còn cao hơn than luyện cốc

Sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong 14 năm vào năm 2020, giá than nhiệt đã tăng mạnh trở lại vào năm 2021. Hầu hết các chỉ số giá nhiệt quốc tế đều đạt mức cao nhất mọi thời đại vào tháng 10, phản ánh cung-cầu mất cân bằng hậu Covid-19, với tình trạng thiếu than và điện ở Trung Quốc, Ấn Độ, là những trường hợp có liên quan nhất. Giá FOB của Newcastle đối với than nhiệt cao cấp có nhiệt trị 6.000 kcal/kg và giá API2 (chỉ số giao than tới châu Âu) lần lượt đạt mức chưa từng có là 253 USD/tấn và 254 USD/tấn. Giá giảm trở lại vào cuối năm khi nỗ lực tăng sản lượng của Trung Quốc mang lại kết quả và lượng than tồn kho trở lại bình thường.

Tháng 1/2022, giá than nhiệt giao ngay ban đầu bị đẩy lên cao khi chính phủ Indonesia quyết định tạm dừng xuất khẩu ngay lập tức trước tình trạng thiếu hụt nguồn cung trong nước. Cuộc chiến tại Ukraine đã khiến giá than trên toàn thế giới tăng vọt lên mức cao kỷ lục khác là 380 USD/tấn vào tháng 3/2022. Giá than nhiệt châu Âu bắt kịp giá Úc. Ngược lại, giá nhập khẩu của nam Trung Quốc ít bị ảnh hưởng hơn do nhu cầu thấp hơn, sản xuất trong nước được cải thiện và cơ hội mua than giảm giá của Nga. Giá than nhiệt cao cấp của Úc đã tăng thẳng lên mức cao kỷ lục tiếp theo khoảng 425 USD/tấn vào tháng 5 do lũ lụt ở nước này cản trở việc sản xuất và vận chuyển than, trong khi các công ty điện lực ở châu Âu và Đông Bắc Á tìm cách có được nguồn cung cấp than không phải của Nga.

Giá nhập khẩu than nhiệt của châu Âu thấp hơn so với Úc vào đầu mùa hè, nhưng đã tăng vọt vào tháng 7/2022 khi Nga giảm lưu lượng khí đốt đến châu Âu. Vào tháng 11/2022, giá than ở châu Âu và Úc đã đảo ngược xu hướng giảm khi bắt đầu mùa nóng. Giá nhập khẩu than nhiệt của nam Trung Quốc có xu hướng giảm từ tháng 3 đến tháng 8/2022, do sản xuất trong nước cao hơn và nhu cầu vừa phải dẫn đến khối lượng nhập khẩu thấp hơn. Ngoài ra, các công ty Trung Quốc, giống như các công ty ở nhiều nước nhập khẩu khác, đang mua than của Nga với mức chiết khấu đáng kể. Trong tháng 8 và tháng 9/2022, giá nhập khẩu tại nam Trung Quốc tăng nhẹ do nhu cầu nhập khẩu mạnh hơn. Một đợt nắng nóng nghiêm trọng và hạn hán đã tấn công đất nước, làm giảm sản lượng thủy điện và đẩy nhu cầu than để làm mát tăng cao./.

Khắc Nam

Theo Báo chí nước ngoài-12/2022

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo